Phào chỉ nhựa giá rẻ Phú Minh Khôi tại Long An
Cam kết 3 “KHÔNG” của Phú Minh Khôi khi cung cấp dịch vụ cug cấp phào chỉ nhựa
Dịch vụ cug cấp phào chỉ nhựa do Công ty Phú Minh Khôi cung cấp luôn tự tin đưa ra những cam kết uy tín nhất. Điều này giúp quý khách hàng có thể tin tưởng tuyệt đối khi trải nghiệm dịch vụ tại công ty.
- KHÔNG dùng sai vật liệu: Quá trình thi công phào chỉ nhựa, công ty luôn dùng đúng chất lượng vật liệu khách hàng lựa chọn. Tất cả đều được thể hiện rõ trong hồ sơ dự toán chi tiết của từng hạng mục công trình mà công ty thực hiện.
- KHÔNG bán thầu: Khi đã nhận sự ủy thác của khách hàng, dịch vụ sẽ trực tiếp đưa nhân viên công ty thực hiện. Chúng tôi cam kết không bán thầu cho bên thứ 3. Vì vậy, khách hàng có thể yên tâm hợp tác mà không phải lo lắng việc chịu trách nghiệm chất lượng công trình thuộc về ai.
- KHÔNG phát sinh phụ phí: Bảng giá được báo chi tiết, công khai ngay từ đầu. Quá trình thi công sẽ không phát sinh phụ phí nên khách hàng có thể yên tâm tuyệt đối.
Khách hàng hãy liên hệ ngay đến số hotline: 0906.976.838 -0934.764.868. Công ty Phú Minh Khôi rất hân hạnh chào đón quý khách hàng đến và trải nghiệm dịch vụ cung cấp phào chỉ nhựa uy tín. Chúng tôi luôn nỗ lực hết mình để mang đến cho khách hàng sự phục vụ chuyên nghiệp, hiệu quả tiết kiệm và chất lượng tốt nhất trong từng công trình.
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Là tỉnh duy nhất của miền Tây nối liền cửa ngõ Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2019, Long An là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 15 về số dân, trong danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP xếp thứ 12 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 13 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 14 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.695.150 người dân,[4] GRDP đạt 123.187 tỉ đồng (tương ứng với 5,355 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 72,67 triệu đồng (tương ứng với 3160 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,41%.[5]
Tỉnh lỵ của Long An là thành phố Tân An, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 45 km theo đường Quốc lộ 1A.
Long An là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam[6] và là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhất là có chung đường ranh giới với thành phố Hồ Chí Minh, bằng hệ thống các quốc lộ: 1A, 50, 62, N1, N2 (Đường Hồ Chí Minh). Tỉnh được xem là thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản lớn nhất của Đồng bằng Sông Cửu Long.[6]
Mục lục
- 1Địa lý
- 2Lịch sử
- 3Hành chính
- 4Kinh tế
- 5Văn hoá
- 6Thể thao
- 7Dân số
- 8Y tế - Giáo dục
- 9Giao thông
- 10Chú thích
- 11Liên kết ngoài
Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]
Dù được xếp vào vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng Long An nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, có vị trí địa lý:
- Phía bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Svay Rieng, Campuchia
- Phía nam và tây nam giáp tỉnh Tiền Giang và tỉnh Đồng Tháp
- Phía đông và đông bắc giáp Thành phố Hồ Chí Minh
- Phía tây giáp tỉnh Prey Veng, Campuchia.
Các điểm cực của tỉnh:
- Điểm cực bắc tại xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng
- Điểm cực nam tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành
- Điểm cực đông tại xã Tân Tập, huyện Cần Giuộc
- Điểm cực tây tại xã Hưng Điền, huyện Tân Hưng.
Ruộng Lúa tại huyện Mộc Hóa
Khí hậu[sửa | sửa mã nguồn]
Long An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm. Do tiếp giáp giữa 2 vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ cho nên vừa mang các đặc tính đặc trưng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long lại vừa mang những đặc tính riêng biệt của vùng miền Đông.[7]
Nhiệt độ trung bình hàng tháng 27,2 - 27,7 °C. Thường vào tháng 4 có nhiệt độ trung bình cao nhất 28,9 °C, tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 25,2 °C.
Lượng mưa hàng năm biến động từ 966–1325 mm. Mùa mưa chiếm trên 70-82% tổng lượng mưa cả năm. Mưa phân bổ không đều, giảm dần từ khu vực giáp ranh thành phố Hồ Chí Minh xuống phía tây và Tây Nam. Các huyện phía Đông Nam gần biển có lượng mưa ít nhất. Cường độ mưa lớn làm xói mòn ở vùng gò cao, đồng thời mưa kết hợp với cường triều, với lũ gây ra ngập úng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư.
Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 80 - 82%. Thời gian chiếu sáng bình quân ngày từ 6,8 - 7,5 giờ/ngày và bình quân năm từ 2.500 - 2.800 giờ. Tổng tích ôn năm từ 9.700 - 10.100 °C. Biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm dao động từ 2-4 °C.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 có gió Đông Bắc, tần suất 60 - 70%. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 có gió Tây Nam với tần suất 70%.[7]
Tỉnh Long An nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo có nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt độ và tổng tích ôn cao, biên độ nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp, ôn hòa.
Những khác biệt nổi bật về thời tiết khí hậu như trên có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp.
Địa hình[sửa | sửa mã nguồn]
Đồng lúa xanh mát của Phú Ngãi Trị - Châu Thành - Long An
Tỉnh Long An thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có tọa độ địa lý từ 105030' 30 đến 106047' 02 kinh độ Đông và 10023'40 đến 11002' 00 vĩ độ Bắc,[6] phía Đông giáp với thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh, phía Bắc giáp với tỉnh Svay Rieng, Vương Quốc Campuchia,[8] phía Tây giáp với tỉnh Đồng Tháp và phía Nam giáp với tỉnh Tiền Giang. Sở hữu vị trí địa lý khá đặc biệt bên cạnh đó còn thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Long An được xác định là vùng kinh tế động lực có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam.
Trước năm 1975, tỉnh Long An (không bao gồm các huyện thị thuộc vùng Đồng Tháp Mười ngày nay) thuộc vùng Đông Nam Bộ. Hiện nay, dù được xếp vào vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng Long An là phần đất chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, nên địa hình có xu hướng thấp dần từ đông bắc xuống tây nam. phía bắc và đông bắc tỉnh có một số gò đồi thấp; giữa tỉnh là vùng đồng bằng và phía tây nam tỉnh là vùng trũng Đồng Tháp Mười, trong đó có khu rừng tràm ngập phèn rộng 46.300 ha.
Tỉnh có 6 nhóm đất chính, nhưng phần lớn là dạng phù sa bồi lắng lẫn nhiều tạp chất hữu cơ, cấu tạo bở rời, tính chất cơ lý kém, nhiều vùng bị chua phèn và tích tụ độc tố.
Địa hình Long An bị chia cắt nhiều bởi hệ thống sông và kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài lên tới 8.912 km, sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây hợp thành sông Vàm Cỏ, kênh Dương Văn Dương,... trong đó lớn nhất là sông Vàm Cỏ Đông.
Thuỷ văn[sửa | sửa mã nguồn]
Miền quê với kênh rạch tỉnh Long An
Long An chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp. Thời gian một ngày triều là 24 giờ 50 phút, một chu kì triều là 13 - 14 ngày. Vùng chịu ảnh hưởng của triều nhiều nhất là các huyện phía Nam Quốc lộ 1A, đây là nơi ảnh hưởng mặn từ 4 đến 6 tháng trong năm.[9] Triều biển Đông tại cửa sông Soài Rạp có biên độ lớn từ 3,5 đến 3,9 m, đã xâm nhập vào sâu trong nội địa với cường độ triều mạnh nhất là mùa khô. Biên độ triều cực đại trong tháng từ 217 đến 235 cm tại Tân An và từ 60 đến 85 cm tại Mộc Hoá.[9] Do biên độ triều lớn, đỉnh triều mùa gió chướng đe doạ xâm nhập mặn vào vùng phía nam. Trong mùa mưa có thể lợi dụng triều tưới tiêu tự chảy vùng ven hai sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây làm giảm chi phí sản xuất.[9]
Bị ngập mặn chủ yếu là từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp do chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều. Trước đây, sông Vàm Cỏ Tây mặn thường xâm nhập trên Tuyên Nhơn (huyện Thạnh Hoá) khoảng 5 km. Mặn xâm nhập bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 6 với mức 2 đến 4 gam/lít.[10] Đất phèn tập trung với 2084,49 km2, chiếm 69,8% diện tích toàn vùng Đồng Tháp Mười và bằng 46,41% diện tích tự nhiên của tỉnh.[11] Lũ thường bắt đầu vào trung tuần tháng 8 và kéo dài đến tháng 11,[12] mưa tập trung với lưu lượng và cường độ lớn nhất trong năm gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Lũ đến tỉnh Long An chậm và mức ngập không sâu.[12]
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Lịch sử hành chính Long An
Các di chỉ khảo cổ học cho thấy, ngay từ thời cổ đại, Long An đã là địa bàn quan trọng của vương quốc Phù Nam - Chân Lạp. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào khai phá miền Nam, đất Long An thuộc phủ Gia Định. Thời Minh Mạng, đất Long An thuộc tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Định Tường. Đầu thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia thành 21 tỉnh, đất Long An nằm trong địa bàn 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn.
Dân số tỉnh Long An 1967[13] | |
---|---|
Quận | Dân số |
Bến Lức | 46.877 |
Bình Phước | 86.206 |
Cần Đước | 83.631 |
Cần Giuộc | 86.082 |
Rạch Kiến | 40.527 |
Tân Trụ | 36.157 |
Thủ Thừa | 48.212 |
Tổng số | 427.702 |
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Sài Gòn lập tỉnh Long An trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An. Tỉnh lỵ đặt tại Tân An, về mặt hành chánh thuộc xã Bình Lập, quận Châu Thành.
Ngày 24 tháng 04 năm 1957, tỉnh Long An bao gồm 7 quận như sau:
- Quận Bến Lức có 2 tổng với 12 xã.
- Quận Đức Hoà có 2 tổng với 13 xã.
- Quận Cần Đước có 3 tổng với 16 xã.
- Quận Cần Giuộc có 4 tổng với 24 xã.
- Quận Châu Thành có 3 tổng với 15 xã.
- Quận Thủ Thừa có 2 tổng với 9 xã.
- Quận Tân Trụ có 2 tổng với 12 xã.
Ngày 3 tháng 10 năm 1957, quận Châu Thành đổi tên thành quận Bình Phước.
Ngày 3 tháng 3 năm 1959, lập quận mới Đức Huệ, gồm 3 xã.
Ngày 7 tháng 2 năm 1963, đổi tên quận Cần Đước thành quận Cần Đức, quận Cần Giuộc thành quận Thanh Đức.
Ngày 15 tháng 10 năm 1963, tách 2 quận Đức Hoà, Đức Huệ nhập vào tỉnh Hậu Nghĩa.
Ngày 17 tháng 11 năm 1965, đổi tên quận Cần Đức thành quận Cần Đước, quận Thanh Đức thành quận Cần Giuộc như cũ.
Ngày 7 tháng 1 năm 1967, lập mới quận Rạch Kiến, gồm 9 xã.
Sau năm 1975, quận Bình Phước đổi về tên cũ là Châu Thành, quận Rạch Kiến giải thể.
Năm 1976, tỉnh Long An hợp nhất với tỉnh Kiến Tường và 2 quận Đức Hoà, Đức Huệ của tỉnh Hậu Nghĩa thành tỉnh Long An mới. Toàn bộ đất của tỉnh Kiến Tường cũ trở thành huyện Mộc Hoá của tỉnh Long An. Cùng năm, xã Bình Lập, huyện Châu Thành được tách ra để thành lập thị xã Tân An - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Long An. Tỉnh Long An gồm thị xã Tân An và 9 huyện: Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hoà, Đức Huệ, Mộc Hoá, Tân Trụ, Thủ Thừa.
Ngày 11 tháng 03 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Thủ Thừa và Bến Lức thành huyện Bến Thủ, hợp nhất 2 huyện Tân Trụ và Châu Thành thành huyện Tân Châu.
Ngày 30 tháng 03 năm 1978, chia huyện Mộc Hoá thành hai huyện: Mộc Hoá và Vĩnh Hưng.
Ngày 19 tháng 9 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 298-CP, chia huyện Mộc Hoá thành hai huyện lấy tên là huyện Mộc Hoá và huyện Tân Thạnh và đổi tên huyện Tân Châu thành huyện Vàm Cỏ.
Ngày 14 tháng 01 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 05-HĐBT, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh Long An như sau:
- Chia huyện Bến Thủ thành 2 huyện Bến Lức và Thủ Thừa.
- Mở rộng thị xã Tân An trên cơ sở nhập 3 xã của huyện Vàm Cỏ và 3 xã của huyện Bến Thủ, với tổng điện tích tự nhiên 7.794 ha.
Ngày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 36/HĐBT, chia huyện Vàm Cỏ thành 2 huyện Châu Thành và Tân Trụ.
Ngày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 74/HĐBT, thành lập huyện Thạnh Hóa từ một phần các huyện Mộc Hóa và Tân Thạnh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 27-CP, chia huyện Vĩnh Hưng thành 2 huyện Vĩnh Hưng và Tân Hưng.
Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/NQ-CP, thành lập thành phố Tân An thuộc tỉnh Long An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Tân An.
Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP, thành lập thị xã Kiến Tường thuộc tỉnh Long An trên cơ sở điều chỉnh 20.428,20 ha diện tích tự nhiên và 64.589 nhân khẩu của huyện Mộc Hoá.
Ngày 5 tháng 9 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1140/QĐ-TTg công nhận thành phố Tân An là đô thị loại II.[14]
Tỉnh Long An có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Tân An, thị xã Kiến Tường và các huyện: Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hoà, Đức Huệ, Mộc Hoá, Tân Hưng, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thạnh Hoá, Thủ Thừa, Vĩnh Hưng.
Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Đô thị tại Long An
Tỉnh Long An có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện với 188 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 12 phường, 15 thị trấn và 161 xã[15]:
Tên | Thành phố Tân An |
Thị xã Kiến Tường |
Huyện Bến Lức |
Huyện Cần Đước |
Huyện Cần Giuộc |
Huyện Châu Thành |
Huỵen Đức Hoà |
Huyện Đức Huệ |
Huyện Mộc Hoá |
Huyện Tân Hưng |
Huyện Tân Thạnh |
Huyện Tân Trụ |
Huyện Thạnh Hoá |
Huyện Thủ Thừa |
Huyện Vĩnh Hưng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Diện tích (km²) | 81,94 | 204,36 | 287,86 | 218,20 | 215,1 | 155,24 | 427,63 | 428,92 | 297,64 | 496,7 | 422,85 | 106,5 | 468,37 | 299,1 | 384,52 |
Dân số2019 (người) | 145.120 | 43.674 | 181.660 | 187.359 | 214.914 | 109.812 | 315.711 | 65.961 | 28.165 | 47.651 | 77.537 | 66.502 | 56.074 | 98.333 | 50.074 |
Mật độ (người/km²) | 1.771 | 214 | 631 | 859 | 999 | 707 | 738 | 154 | 95 | 96 | 183 | 624 | 120 | 329 | 130 |
Phân chia hành chính | 9 phường, 5 xã | 3 phường, 5 xã | 1 thị trấn, 14 xã | 1 thị trấn, 16 xã | 1 thị trấn, 14 xã | 1 thị trấn, 12 xã | 3 thị trấn, 17 xã | 1 thị trấn, 10 xã | 1 thị trấn, 6 xã | 1 thị trấn, 11 xã | 1 thị trấn, 12 xã | 1 thị trấn, 9 xã | 1 thị trấn, 10 xã | 1 thị trấn, 11 xã | 1 thị trấn, 9 xã |
Năm thành lập | 2009 | 2013 | 1957 | 1909 | 1864 | 1922 | 1913 | 1959 | 1917 | 1994 | 1980 | 1952 | 1989 | 1922 | 1978 |
Loại đô thị | II | IV | IV | IV | IV | IV |
Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP
Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người
Nổi tiếng với nhiều sản phẩm nông nghiệp như gạo tài nguyên, gạo nàng thơm Chợ Đào, rượu Đế Gò Đen, dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức, đậu phộng Đức Hòa, mía Thủ Thừa, thanh long Châu Thành,... Đặc biệt, lúa gạo chất lượng cao là sản phẩm nông nghiệp chủ lực phục vụ xuất khẩu.
Công nghiệp đạt khoảng 50% giá trị trong nền kinh tế tỉnh, được biết đến với những sản phẩm như dệt may, thực phẩm chế biến, xây dựng... Trong bảng xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Việt Nam năm 2018, tỉnh Long An xếp ở vị trí thứ 2 trong 13 tỉnh miền Tây và thứ 3 cả nước.
Giá trị sản xuất công nghiệp cả năm 2019 ước đạt 315.200 tỷ đồng. Tổng sản phẩm GRDP ước đạt 123.000 tỷ đồng. Thu ngân sách đạt 18.000 tỷ đồng.
Văn hoá[sửa | sửa mã nguồn]
Long An có nhiều di tích lịch sử từ cổ tới kim, nổi bật là văn hoá Óc Eo tại Đức Hoà, đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại Tân An, Chùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc và Nhà trăm cột tại Cần Đước.[16] Hiện tỉnh có khoảng 186 di tích lịch sử, có 16 di tích được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia và 63 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.[8]
Di tích lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách các Di tích tại tỉnh Long An | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
Phong tục tập quán[sửa | sửa mã nguồn]
Long An còn có các lễ hội như lễ Kỳ Yên, lễ cầu mưa, lễ tống phong với nhiều trò chơi dân gian như đua thuyền, kéo co, đánh vật, có khả năng thu hút được nhiều khách du lịch. Các nghề thủ công truyền thống của tỉnh như nghề chạm gỗ (Cần Đước, Bến Lức), nghề kim hoàn (Phước Vân), nghề đóng ghe (Cần Đước), nghề làm trống (Tân Trụ),...
Các lễ hội là một phần trong văn hóa và đời sống xã hội của Long An như: Kỳ Yên, lễ hội cầu mưa và Tòng Phóng. Du khách sẽ hết sức thú vị với mô hình du lịch sinh thái Đồng Tháp Mười, nghe đờn ca tài tử cải lương – một loại hình dân ca đặc sắc của Nam Bộ mà Long An là chiếc nôi của dòng dân ca này.[16]
Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]
- Câu lạc bộ bóng chuyền Bình Điền Long An là một đội bóng chuyền nữ đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam
- Câu lạc bộ bóng chuyền Long An là một đội bóng chuyền nam đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam
- Câu lạc bộ bóng đá Long An đang thi đấu tại Giải bóng đá hạng nhất quốc gia (Việt Nam)
Dân số[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Long An đạt 1.688.547 người, mật độ dân số đạt 376 người/km².[17] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 271.580 người, chiếm 16,1% dân số toàn tỉnh,[18] dân số sống tại nông thôn đạt 1.416.967 người, chiếm 83,9% dân số.[19] Dân số nam đạt 842.074 người.[20] trong khi đó nữ đạt 846.473 người.[21] Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương là 1.62%.[22] Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2020 đạt 18%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Long An có 28 dân tộc cùng 23 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh có 1.431.644 người, người Hoa có 2.690 người, 1.195 người Khơ Me cùng nhiều dân tộc khác, ít nhất là các dân tộc Cờ Lao, Chu Ru và Raglay chỉ có một người[23]...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Long An có 11 Tôn giáo khác nhau chiếm 163.710 người. Trong đó, nhiều nhất là đạo Cao Đài với 70.991 người[24], thứ 2 là Công giáo 53.607 người, thứ 3 là Phật giáo với 47.226 người cùng các tôn giáo it người khác như Đạo Tin Lành có 6.660 người, Phật giáo Hòa Hảo có 4.226 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 440 người, Hồi Giáo có 430 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 43 người Minh Sư Đạo và Minh Lý Đạo mỗi đạo có 38 người, ít nhất là Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với chỉ 11 người[23].
Lịch sử phát triển dân số |
||||||||||||||||
Năm | Dân số | |||||||||||||||
1995 | 1.250.800 | |||||||||||||||
1996 | 1.265.100 | |||||||||||||||
1997 | 1.279.900 | |||||||||||||||
1998 | 1.294.800 | |||||||||||||||
1999 | 1.311.100 | |||||||||||||||
2000 | 1.327.100 | |||||||||||||||
2001 | 1.343.100 | |||||||||||||||
2002 | 1.356.500 | |||||||||||||||
2003 | 1.369.000 | |||||||||||||||
2004 | 1.382.200 | |||||||||||||||
2005 | 1.393.400 | |||||||||||||||
2006 | 1.405.200 | |||||||||||||||
2007 | 1.417.900 | |||||||||||||||
2008 | 1.428.200 | |||||||||||||||
2009 | 1.436.300 | |||||||||||||||
2010 | 1.442.800 | |||||||||||||||
2011 | 1.449.600 | |||||||||||||||
2012 | 1.458.200 | |||||||||||||||
2013 | 1.469.900 | |||||||||||||||
2014 | 1.477.300 | |||||||||||||||
2015 | 1.487.500 | |||||||||||||||
2016 | 1.498.200 | |||||||||||||||
2017 | 1.515.191 | |||||||||||||||
2018 | 1.523.600 | |||||||||||||||
2019 | 1.688.547 | |||||||||||||||
2020 | 1.713.658 |
Y tế - Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]
Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có hơn 500 trường học ở cấp phổ thông trong đó trung học phổ thông có 48 trường, trung học cơ sở có 122 trường, tiểu học có 246 trường, bên cạnh đó còn có 183 trường mẫu giáo.[25] Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Long An cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.[25] Hệ thống trường tiêu biểu như:
Trường Chính trị Long An (1005, QL1A, phường Tân Khánh, TP. Tân An, Long An - Tel: 0272 3511 574)
Hệ thống trường Đại học:
- Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An (Quốc lộ 1, Khánh Hậu, TP. Tân An)
- Trường Đại học Tân Tạo (Khu công nghiệp Tân Đức, xã Đức Hòa Hạ 824, Đức Hòa, Long An)
Hệ thống trường Cao đẳng:
- Trường Cao đẳng nghề Long An (trường công lập - 60 QL1, phường 5, TP. Tân An, Long An)
- Trường Cao đẳng Sư phạm Long An (trường công lập - QL1, Khánh Hậu, TP. Tân An, Long An)
- Trường Cao đẳng Nghề kỹ thuật công nghệ Ladec (trường tư thục - 164 Châu Thị Kim, phường 3, TP. Tân An, Long An)
Trung cấp:
- Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Long An (277, Quốc lộ 1A, Voi Lá, thị trấn Bến Lức, Bến Lức, Long An)
- Trường Trung cấp Y tế Long An (93 QL62, phường 6, TP. Tân An, Long An)
- Trường Trung cấp Phật học Long An
- Trường Trung cấp Nghề Đồng Tháp Mười (QL62, phường 3, thị xã Kiến Tường, Long An)
Ngoài ra, Long An còn có xây dựng thêm rất nhiều trường trung học phổ thông, cơ sở, tiểu học và rất nhiều trường mầm non trong địa bàn toàn tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu về giáo dục cho người dân.
Y tế[sửa | sửa mã nguồn]
Đến ngày 05 tháng 11 năm 2008, hệ thống y tế của tỉnh bao gồm: bệnh viện tuyến tỉnh, 11 bệnh viện tuyến huyện, 8 phòng khám khu vực và có 183/188 xã, phường, thị trấn có trạm y tế. Năm 2009, tỉnh Long An có 211 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 16 bệnh viện, 5 phòng khám đa khoa khu vực, và 190 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.807 giường, trong đó các bệnh viện có 1.980 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 95 giường, trạm y tế có 732 giường.[26]
Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có 211 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 16 bệnh viện, 5 phòng khám đa khoa khu vực, 190 trạm y tế phường xã, với 3.332 giường bệnh và 751 bác sĩ, 1.034 y sĩ, 907 y tá và khoảng 455 nữ hộ sinh.[27]
Giao thông[sửa | sửa mã nguồn]
Long An là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với đồng bằng sông Cửu Long, có chung đường ranh giới với thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống giao thông kết nối tỉnh với khu vực khá hoàn chỉnh, bao gồm đường bộ lẫn đường thuỷ.
- Các tuyến quốc lộ - cao tốc:
- Hiện hữu: 1A, 50, 62, N2 (đường Hồ Chí Minh), đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương.
- Dự kiến: 50B (đường động lực kết nối TPHCM - Long An - Tiền Giang), N1, Đường cao tốc Bến Lức - Long Thành, Đường Vành đai 3, Đường Vành đai 4.
Quốc lộ 50 đoạn đi qua Huyện Cần Đước, thuộc địa phận Tỉnh Long An
- Các tuyến đường tỉnh được đánh số từ 816 - 840.
Ngoài hệ thống giao thông đường bộ Long An cũng là tỉnh có hệ thống giao thông đường thuỷ chằng chịt với các tuyến giao thông như sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây, sông Rạch Cát (sông Cần Giuộc). Các tuyến đường thuỷ quan trọng như thành phố Hồ Chí Minh - Kiên Lương, thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh - Tây Ninh đều qua Long An theo kênh Nước Mặn, sông Rạch Cát, sông Vàm Cỏ Đông. Các loại phương tiện vận tải thuỷ trên 100 tấn có thể theo các kênh rạch như Phước Xuyên, Dương Văn Dương, Trà Cú, Kinh Xáng, sông Bến Lức, sông Rạch Cát, kinh Thủ Thừa... đi từ miền Tây đến thành phố Hồ Chí Minh.
Dọc theo tuyến biên giới ở Long An, hiện nay có 5 cửa khẩu, bao gồm:
- Mỹ Quý Tây (Xòm-Rông) - Đức Huệ
- Hưng Điều A (Đức Huệ)
- Bình Hiệp (Prây-Vo) – Thị xã Kiến Tường
- Vàm Đồn – Vĩnh Hưng
- Kênh 28 – Vĩnh Hưng
Ngoài ra, còn có 5 điểm trao đổi hàng hoá khác như Voi Đình, Sóc Rinh thuộc huyện Đức Huệ, Tà Lọt thuộc huyện Mộc Hoá, Rạch Chanh, Tàu Nu, Cây Trâm Dồ thuộc huyện Vĩnh Hưng.
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, khối lượng vận chuyển hành khách của tỉnh là 38,5 triệu lượt người, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 1176,8 triệu lượt người/km, khối lượng vận chuyển hàng hoá đạt 12.972,0 nghìn tấn (đường bộ đạt 4.147 nghìn tấn, đường thuỷ đạt 8.798 nghìn tấn), khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 483,2 triệu tấn/km (đường bộ đạt 51,9 triệu tấn/km, đường thuỷ đạt 431,3 triệu tấn/km).
Biển số xe[sửa | sửa mã nguồn]
- Thành phố Tân An: 62-B1
- Huyện Tân Hưng: 62-C1
- Huyện Vĩnh Hưng: 62-D1
- Huyện Tân Thạnh: 62-E1
- Huyện Thạnh Hoá: 62-F1
- Huyện Thủ Thừa: 62-G1
- Huyện Tân Trụ: 62-H1
- Huyện Châu Thành: 62-K1
- Huyện Cần Đước: 62-L1
- Huyện Cần Giuộc: 62-M1
- Huyện Bến Lức: 62-N1
- Huyện Đức Hoà: 62-P1-P2
- Huyện Đức Huệ: 62-S1
- Thị xã Kiến Tường: 62-U1
- Huyện Mộc Hoá: 62-T1
- Xe máy dưới 50 cm³: 62AB
- Xe phân khối lớn trên 175 cm³: 62-A1
- Biển số xe ô tô: 62A, 62B, 62C, 62D, 62LD.