Phào chỉ nhựa giá rẻ Phú Minh Khôi tại Đắk Lắk

Phào chỉ nhựa giá rẻ Phú Minh Khôi tại Đắk Lắk

Cam kết 3 “KHÔNG” của Phú Minh Khôi khi cung cấp dịch vụ cug cấp phào chỉ nhựa

Dịch vụ cug cấp phào chỉ nhựa do Công ty Phú Minh Khôi cung cấp luôn tự tin đưa ra những cam kết uy tín nhất. Điều này giúp quý khách hàng có thể tin tưởng tuyệt đối khi trải nghiệm dịch vụ tại công ty.

 

  • KHÔNG  dùng sai vật liệu: Quá trình thi công phào chỉ nhựa, công ty luôn dùng đúng chất lượng vật liệu khách hàng lựa chọn. Tất cả đều được thể hiện rõ trong hồ sơ dự toán chi tiết của từng hạng mục công trình mà công ty thực hiện.
  • KHÔNG bán thầu: Khi đã nhận sự ủy thác của khách hàng, dịch vụ sẽ trực tiếp đưa nhân viên công ty thực hiện. Chúng tôi cam kết không bán thầu cho bên thứ 3. Vì vậy, khách hàng có thể yên tâm hợp tác mà không phải lo lắng việc chịu trách nghiệm chất lượng công trình thuộc về ai.
  • KHÔNG phát sinh phụ phí: Bảng giá được báo chi tiết, công khai ngay từ đầu. Quá trình thi công sẽ không phát sinh phụ phí nên khách hàng có thể yên tâm tuyệt đối.

Khách hàng hãy liên hệ ngay đến số hotline: 0906.976.838 -0934.764.868. Công ty Phú Minh Khôi rất hân hạnh chào đón quý khách hàng đến và trải nghiệm dịch vụ cung cấp phào chỉ nhựa uy tín. Chúng tôi luôn nỗ lực hết mình để mang đến cho khách hàng sự phục vụ chuyên nghiệp, hiệu quả tiết kiệm và chất lượng tốt nhất trong từng công trình.


Đắk Lắk hay Darlac là một tỉnh có diện tích lớn thứ 4 nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam.

Năm 2018, Đắk Lắk là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 9 về số dân, xếp thứ 22 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)xếp thứ 41 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 37 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.919.200 người dân[3], số liệu kinh tế - xã hội thống kê GRDP đạt 78.686 tỉ Đồng (tương ứng với 3,4175 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 41,00 triệu đồng (tương ứng với 1.781 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,82%.[4]

Tỉnh lỵ của Đắk Lắk là thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km, cách thành phố Đà Nẵng 647 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tách tỉnh Đăk Lăk thành hai tỉnh là Đăk Lăk và Đăk Nông[5]. Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại được thế giới công nhận.

Mục lục

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt nguồn từ tiếng M'nông Đắk Lắk [daːk laːk] (phát âm gần giống như "đác lác") nghĩa là "hồ Lắk", với dak nghĩa là "nước" hay "hồ".[6]

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý từ 107°28'57"Đ- 108°59'37"Đ và từ 12°9'45"B - 13°25'06"B[7]. Tỉnh Đắk Lắk có vị trí địa lý:

Độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh núi Chư Yang Sin có độ cao 2442 m so với mực nước biển, đây cũng chính là đỉnh núi cao nhất ở Đắk Lắk.

Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử chia tách và sáp nhập nên 9.300 ha nằm giữa xã Ea Trang (huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk) và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) nằm trong diện tranh chấp để phân định địa giới hành chính giữa hai tỉnh.[9]

Điều kiện tự nhiên[sửa | sửa mã nguồn]

Suối trong rừng Ea-so

Thác Dray K'nao ở M'Drak

Đắk Lắk có địa hình có hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc: nằm ở phía tây và cuối dãy Trương Sơn, là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven các dòng sông chính. Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía tây bắc có khí hậu nắng nóng, khô hanh về mùa khô, vùng phía đông và phía nam có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. thời tiết chia làm 2 mùa khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 kèm theo gió tây nam thịnh hành, các tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 7,8,9, lượng mưa chiếm 80-90% lượng mưa năm. Riêng vùng phía đông do chịu ảnh hưởng của đông Trường Sơn nên mùa mưa kéo dài hơn tới tháng 11. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió đông bắc thổi mạnh, bốc hơi lớn, gây khô hạn nghiêm trọng[10]. Lượng mưa trung bình nhiều năm toàn tỉnh đạt từ 1600–1800 mm.

Rừng Đắk Lắk có diện tích và trữ lượng lớn nhất nước[8] với nhiều chủng loại gỗ quý hiếm, nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị khoa học, phân bố trong điều kiện thuận lợi nên tái sinh rừng có mật độ khá lớn. Khoáng sản với trữ lượng khác nhau, trong đó một số loại khoáng sản đã được xác định là sét cao lanh, sét gạch ngói, ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều loại khoáng sản khác như vàng, phốt pho, than bùn, đá quý… có trữ lượng không lớn phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh [11].

Hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh khá phong phú, phân bố tương đối đồng đều, tuy nhiên do địa hình dốc nên khả năng trữ nước kém, những khe suối nhỏ hầu như không có nước trong mùa khô. Bên cạnh hệ thống sông suối khá phong phú, trên địa bàn tỉnh hiện nay còn có rất nhiều hồ tự nhiên và hồ nhân tạo như hồ Lắk, Ea Kao, Buôn Triết, Ea sô[11]

Nạn phá rừng[sửa | sửa mã nguồn]

Theo báo cáo của UBND tỉnh Đắk Lắk, năm 2017 tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn có hơn 720.000 ha. Trong đó, diện tích đất có rừng hơn 526.000 ha, độ che phủ rừng đạt hơn 39,3% (tính cả cây cao su). Rừng được giao cho 15 công ty lâm nghiệp, 7 ban quản lý rừng đặc dụng, 4 ban quản lý rừng phòng hộ, 69 doanh nghiệp có chức năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, khoanh nuôi bảo vệ rừng và một phần giao cho UBND cấp huyện, cấp xã quản lý, Thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk, trong năm 2017, các lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý 1.407 vụ vi phạm lâm luật, tịch thu 2.441,7 m3 gỗ và 717 phương tiện các loại, thu nộp ngân sách nhà nước hơn 18,8 tỷ đồng. So với năm 2016, số vụ vi phạm lâm luật giảm 217 vụ, tuy số vụ giảm, nhưng những vụ phá rừng với quy mô lớn và táo bạo vẫn diễn ra

Một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn phá rừng là do chính quyền địa phương có rừng chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm được giao trong quản lý bảo vệ rừng. Một số cán bộ, công chức trong lực lượng bảo vệ rừng còn thiếu trách nhiệm, thậm chí bao che, tiếp tay cho lâm tặc nên còn sơ hở để các đối tượng làm ăn phi pháp lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm.[12]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Lịch sử hành chính Đắk Lắk

Đắk Lắk (còn ghi theo tiếng Pháp là Darlac) được thành lập theo nghị định ngày 22 tháng 11 năm 1904 của Toàn quyền Đông Dương.

Từ DAK có những từ tương đồng như Dar, đạ, đà. Các từ này tương ứng với các từ chỉ nơi chốn như Đà Nẵng, Đà Lạt, Đạ Tẻn, Đak Hà....v.v....Từ Dak=Dar = Đạ = Đà có nghĩa như một vùng lãnh thổ xuất hiện trong vùng đất của quốc gia Chăm Pa cổ xưa. Ngoài ra từ (Dar = dak = Đạ = Đà) cũng có nghĩa là nước, nhưng nó không ám chỉ nước để uống hay sinh hoạt, đó là cái nhìn thực dụng của những người nghiên cứu không có chuyên môn. Nước ở đây là nói về một đất nước, vùng lãnh thổ, một dạng tiểu bang. Trong các nghiên cứu về Chăm Pa, một số nhận định của các nhà nghiên cứu cũng cho rằng Champa quản lí đất nước giống như các tiểu bang thời nay ở nước ngoài.

Từ LAK có từ tương đồng LAC. Theo các già làng ở vùng cao nguyên cũng cho rằng từ LAC là phiên âm của từ LẠCH. Theo dân gian thì người Lạch là các nhà buôn và trao đổi hàng hóa gốm xứ ở vùng cao nguyên (thương gia người dân tộc Lạch) trong thời Chăm Pa cổ. Các sử thi như sử thi Đăm Săn cũng nói về người Lạch.

Từ DAKLAK hay DARLAC hoặc ĐẠ LẠCH ý nói như vùng đất hay địa bàn mà người Lạch hay trao đổi hàng hóa tại đây.

Các công sứ Pháp từ 1900 - 1930 là:

  1. Leon Bourgeois (1899 - 1904)[13]
  2. Charles J. Bardin (1904 - 1905)
  3. Henri Besnard (1905[14] - 1909)
  4. Antoine G. Groslier (1909 - 1912)
  5. Louis Cottez (1912 - 1913)
  6. Leopold Sabatier (1913 - 1925[15][16])
  7. Paul E. Giran (1925 - 1931[17])
  8. Desteney (1931 - 1934; về sau làm Công sứ tỉnh Thừa Thiên[18])
  9. Henri Gerbinis (1935 - 1938)[19]....

Đến ngày 9 tháng 2 năm 1913 thì tỉnh này trở thành một đại lý hành chính trực thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập cùng ngày. Mãi đến ngày 2 tháng 7 năm 1923 tỉnh Đăk Lăk mới được thành lập lại. Lúc mới thành lập, Đắk Lắk chưa chia huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng (còn gọi là buôn hay bon), người Ê Đê có 151 làng, người Bih có 24 làng, người Gia Rai có 11 làng, người Krung có 28 làng, người M'dhur có 120 làng, người M'Nông có 117 làng, người Xiêm có 1 làng. Năm 1931, trong cuộc cải cách hành chính toàn Đông Dươngtỉnh Đắk Lắk được chia làm 5 quận, gồm có Ban Mê ThuộtBuôn HồĐăk SongLắk và M'Đrăk, dưới có 440 làng.

Ngày 15 tháng 4 năm 1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6 đặt Cao nguyên Trung phần, trong đó có Đắk Lắk, làm Hoàng triều Cương thổ, có quy chế cai trị riêng.

Nghị định số 356-BNV/HC/NĐ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngày 2 tháng 7 năm 1958 ấn định tỉnh Đắk Lắk (được ghi là Darlac) có 5 quận, 21 tổng và 77 xã. Trong đó, Quận Ban Mê Thuột có 4 tổng, Quận Lạc Thiện (đổi tên từ quận Lăk) có 7 tổng, Quận M'Đrak có 4 tổng, Quận Đak Song có 2 tổng và Quận Buôn Hồ có 4 tổng.

Ngày 23 tháng 1 năm 1959, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 24/NV, tách gần như toàn bộ quận Đak Song của tỉnh Darlac, lập ra tỉnh Quảng Đức. Như vậy tỉnh Darlac còn lại 4 quận. Sau đó quận M'Đrak lại bị xé lẻ, một phần nhập vào tỉnh Khánh Hòa và một phần nhập vào tỉnh Phú Yên. Tháng 12 năm 1960, Chính phủ cách mạng chính thức thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia ranh giới của địch, lấy mật danh là B4.

Ngày 20 tháng 12 năm 1963, lập thêm một quận mới tên là Phước An, quận lỵ đặt tại Phước Trạch, đến ngày 1 tháng 9 năm 1965 chuyển về Thuận Hiếu. Sau này lại bỏ cấp tổng, nên chỉ còn cấp quận (4 quận) và xã.

Dân số tỉnh Darlac 1967[20]
Quận Dân số
Ban Mê Thuột 95.664
Buôn Hồ 31.527
Lạc Thiện 19.456
Phước An 10.887
Tổng số 157.534

Tỉnh Đắk Lắk của nước Việt Nam thống nhất từ năm 1976 hình thành từ hai tỉnh Darlac và Quảng Đức, có diện tích lớn thứ hai Việt Nam sau tỉnh Gia Lai - Kon Tum, gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 5 huyện: Đắk MilĐắk NôngKrông BúkKrông PắcLắk. Tỉnh chỉ lớn nhất nước khi tỉnh Gia Lai - Kon Tum tách làm đôi, khi đó Đắk Lắk diện tích 19.539,79 km². Số huyện tăng dần cho đến 18 huyện.

Ngày 30 tháng 8 năm 1977, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Ea Súp; chia huyện Krông Pắk thành 2 huyện: Krông Pắk và M'Đrăk.[21]

Ngày 3 tháng 4 năm 1980, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Ea H'leo.[22]

Ngày 19 tháng 9 năm 1981, thành lập huyện Krông Ana trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Pắk và thị xã Buôn Ma Thuột; chia huyện Krông Pắk thành 2 huyện: Krông Pắk và Krông Bông.[23]

Ngày 23 tháng 1 năm 1984, chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Cư M'gar.[24]

Ngày 22 tháng 2 năm 1986, chia huyện Đắk Nông thành 2 huyện: Đắk Nông và Đắk R'lấp.[25]

Ngày 13 tháng 9 năm 1986, thành lập huyện Ea Kar trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Krông Pắk và M'Đrăk.[26]

Ngày 9 tháng 11 năm 1987, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Krông Năng; thành lập huyện Krông Nô trên cơ sở tách một số xã thuộc các huyện Đắk MilĐắk Nông và Lắk.

Ngày 19 tháng 6 năm 1990, thành lập huyện Cư Jút trên cơ sở tách ra từ huyện Đắk Mil và thị xã Buôn Ma Thuột.[27]

Ngày 21 tháng 1 năm 1995, chuyển thị xã Buôn Ma Thuột thành thành phố Buôn Ma Thuột.[28]

Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Buôn Đôn.[29]

Ngày 21 tháng 6 năm 2001, thành lập huyện Đắk Song trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Đắk Nông và Đắk Mil.[30]

Đến cuối năm 2002, tỉnh Đắk Lắk có diện tích 1.957,64 km2, dân số 2.029.972 người, có tỉnh lị là thành phố Buôn Ma Thuột và 18 huyện: Buôn ĐônCư JútCư M'garĐắk MilĐắk NôngĐắk R'LấpĐắk SongEa H'leoEa KarEa SúpKrông AnaKrông BôngKrông BúkKrông NăngKrông NôKrông PắkLắkM'Đrắk.

Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết số 22/2003/QH.11[31]tỉnh Đăk Lăk tách thành hai tỉnh mới là Đăk Lăk và Đăk Nông, nên số huyện giảm xuống còn 12[32]:

Ngày 28 tháng 2 năm 2005, thành phố Buôn Ma Thuột được công nhận là đô thị loại II.[33]

Ngày 27 tháng 8 năm 2007, chia huyện Krông Ana thành 2 huyện: Krông Ana và Cư Kuin.[34]

Ngày 23 tháng 12 năm 2008, thành lập thị xã Buôn Hồ trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Búk.[35]

Tỉnh Đắk Lắk có 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện như ngày nay.

Ngày 9 tháng 2 năm 2010, thành phố Buôn Ma Thuột được công nhận là là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đắk Lắk.[36]

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện, với 184 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 20 phường, 12 thị trấn và 152 xã.[37]

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Đắk Lắk[37][38][39]

Tên

Dân số (2019)

Hành chính

Thành phố (1)
Buôn Ma Thuột

502.170

13 phường, 8 xã

Thị xã (1)
Buôn Hồ

127.920

7 phường, 5 xã

Huyện (13)
Buôn Đôn

70.650

7 xã

Cư Kuin

103.842

8 xã

Cư M'gar

173.024

2 thị trấn, 15 xã

Ea H'leo

128.347

1 thị trấn, 11 xã

Tên

Dân số (2019)

Hành chính

Ea Kar

150.895

2 thị trấn, 14 xã

Ea Súp

67.120

1 thị trấn, 9 xã

Krông Ana

95.210

1 thị trấn, 7 xã

Krông Bông

100.900

1 thị trấn, 13 xã

Krông Búk

63.850

7 xã

Krông Năng

124.577

1 thị trấn, 11 xã

Krông Pắc

207.226

1 thị trấn, 15 xã

Lắk

77.390

1 thị trấn, 10 xã

M'Đrắk

85.080

1 thị trấn, 12 xã

 

Kinh tế - xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP

Bài chi tiết: Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người

Kinh tế chủ đạo của Đăk Lăk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản. Tỉnh có tiềm năng về [du lịch sinh thái. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, tỉnh Đắk Lắk xếp ở vị trí thứ 31/63 tỉnh thành. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả nước[40]. Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao su, điều lớn của Việt Nam. Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu riêng, chôm chôm, xoài...

Quảng trường trung tâmthành phố Buôn Ma Thuột

Năm 2016, Đánh giá về việc thực hiện 18 chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2016 cho thấy, có 12 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, nổi bật nhất là chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, tổng sản phẩm xã hội (GRDP - theo giá so sánh 2010) khoảng 44.571 tỷ đồng, đạt 101,3% kế hoạch; tăng trưởng kinh tế 7,02%. Cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): nông - lâm - thủy sản đạt 44,81%; công nghiệp - xây dựng đạt 14,48%; dịch vụ đạt 38,68% (kế hoạch năm 2016 tương ứng là: 43 - 44%, 16 - 17%, 36 - 37%).

-Ngành nông, lâm, thủy sản ước đạt 18.892 tỷ đồng, bằng 107,6% KH, tăng trưởng 4,25% (KH: 17.559 tỷ đồng, tăng 3,5-4%). Giá trị sản xuất của các loại cây trồng lâu năm và hằng năm trên địa bàn tỉnh tăng khoảng 250,4 tỷ đồng, tương ứng giá trị tăng thêm 118 tỷ đồng

-Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 4.100 tỷ đồng, bằng 97,6% kế hoạch do HĐND tỉnh giao (kế hoạch: 4.200 tỷ đồng) và đạt 120,2% kế hoạch Trung ương giao (kế hoạch: 3.671 tỷ đồng), tăng 20,2% so với thực hiện năm 2015

-Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) năm 2016 thực hiện 13.750 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2015, đạt 108,2% kế hoạch.

Phấn đấu năm 2018, UBND tỉnh Đắk Lắk đề ra chỉ tiêu: Tổng sản phẩm xã hội đạt khoảng 51.480 tỷ đồng, tăng trưởng kinh tế 7,8-8%, thu nhập bình quân đầu người 41 triệu đồng, huy động vốn đầu tư toàn xã hội 27.720 tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD, thu ngân sách nhà nước khoảng 5.000 tỷ đồng.

Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Đắk Lắk có 695 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 53 trường, Trung học cơ sở có 221 trường, Tiểu học có 417 trường và 5 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 235 trường mẫu giáo[41]. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Đắk Lắk cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh[41].

Danh sách các trường Trung học Phổ thông[sửa | sửa mã nguồn]

Stt Mã trường Tên trường Stt Mã trường Tên trường

1

001

Sở Giáo dục - Đào tạo Đăk Lăk

38

038

Trung học Phổ thông Lê Hữu Trác

2

002

Trung học Phổ thông Buôn Ma Thuột

39

039

Trung học Phổ thông Trần Nhân Tông

3

003

Trung học Phổ thông Chu Văn An

40

040

Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn

4

004

Trung học Phổ thông Quang Trung

41

041

Trung tâm Giáo dục từ xa M’Drăk

5

005

Trung học Phổ thông Trần Phú

42

042

Trung tâm Giáo dục từ xa Ea Kar

6

006

Trung học Phổ thông Dân tộc nội trú Nơ Trang Lơng

43

043

Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng

7

007

Trung Tâm Giáo dục từ xa Đắk Lắk

44

044

Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Bông

8

008

Trung học Phổ thông Nguyễn Bỉnh Khiêm

45

045

Trung tâm Giáo dục từ xa Buôn Ma Thuột

9

009

Trung học Phổ thông Lê Hồng Phong

46

046

Trung học Phổ thông Hùng Vương

10

010

Trung học Phổ thông Buôn Hồ

47

047

Trung cấp dạy nghề Đăk Lăk

11

011

Trung học Phổ thông Cư M’Gar

48

048

Cao đẳng Nghề Thanh niên Dân tộc, Đăk Lăk

12

012

Trung học Phổ thông Krông Ana

49

049

Trung học Phổ thông Phú Xuân

13

013

Trung học Phổ thông Việt Đức

50

050

Trung học Phổ thông Phan Chu Trinh

14

014

Trung học Phổ thông Phan Bội Châu

51

051

Trung học Phổ thông Nguyễn Trường Tộ

15

015

Trung học Phổ thông Ngô Gia Tự

52

052

Trung học Phổ thông Lý Tự Trọng

16

016

Trung học Phổ thông Trần Quốc Toản

53

053

Trung tâm Giáo dục từ xa Buôn Đôn

17

017

Trung học Phổ thông Krông Bông

54

054

Trung tâm Giáo dục từ xa Ea Súp

18

018

Trung học Phổ thông Nguyễn Tất Thành

55

055

Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Đắk Lắk

19

019

Trung học Phổ thông Ea H’leo

56

056

Trường Văn hóa Nghệ thuật Đắk Lắk

20

020

Trung học Phổ thông huyện Lăk

57

057

Trường Văn Hóa 3

21

021

Trung học Phổ thông Ea Sup

58

058

Trung học Phổ thông Dân tộc nội trú Tây Nguyên

22

022

Trung học Phổ thông Hồng Đức (Buôn Ma Thuột)

59

059

Trung học Phổ thông Thực hành Cao Nguyên

23

023

Trung học Phổ thông Nguyễn Trãi

60

060

Trung học Phổ thông Nguyễn Huệ

24

024

Trung học Phổ thông Chuyên Nguyễn Du

61

061

Trung học Phổ thông Nguyễn Văn Cừ

25

025

Trung học Phổ thông Cao Bá Quát

62

062

Trung học Phổ thông Lê Duẩn

26

026

Trung học Phổ thông Phan Đình Phùng

63

063

Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai

27

027

Trung học Phổ thông Buôn Đôn

64

064

Trường năng khiếu Thể dục Thể thao

28

028

Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Ana

65

065

Trung học Phổ thông Phan Đăng Lưu

29

029

Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Pắk

66

066

Trung học Phổ thông Trường Chinh

30

030

Trung tâm Giáo dục từ xa Buôn Hồ

67

067

Trung học Phổ thông Trần Quang Khải

31

031

Trung tâm Giáo dục từ xa huyện Lăk

68

068

Trung học Phổ thông Nguyễn Thái Bình

32

032

Trung tâm Giáo dục từ xa Cư M’Gar

69

069

Trung học Phổ thông Trần Đại Nghĩa

33

033

Trung tâm Giáo dục từ xa Ea H’Leo

70

070

Trung tâm Giáo dục từ xa Cư Kuin

34

034

Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Năng

71

071

Trung học Phổ thông Phạm Văn Đồng

35

035

Trung học Phổ thông Hai Bà Trưng

72

072

Trung học Phổ thông Ea Rốk

36

036

Trung học Phổ thông Nguyễn Công Trứ

73

073

Trung học Phổ thông Trần Hưng Đạo

37

037

Trung học Phổ thông Y Jut      

Trường Đại Học / Cao đẳng/Trung cấp[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trường Đại học Tây Nguyên
  • Trường Đại học Buôn Ma Thuột
  • Trường Đại học Đông Á
  • Trường Đại học Luật Hà Nội phân hiệu Đắk Lắk
  • Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên
  • Trường Cao đẳng Văn Hóa - Nghệ thuật Tỉnh Đăk Lăk
  • Trường Cao đẳng Thực Hành FPT Polytechnic Tây Nguyên
  • Trường Cao đẳng Kỹ thuật Đắk Lắk
  • Trường Cao đẳng Bách Khoa Tây Nguyên
  • Trường Cao đẳng Công nghệ Tây Nguyên
  • Trường Cao đẳng Y tế Đắk Lắk
  • Trường Cao đẳng Sư Phạm Đắk Lắk
  • Trường Cao đẳng Công Thương
  • Trường Trung cấp Đắk Lắk (Sáp nhập Trung cấp Đắk Lắk+Trung cấp Kinh tế kỹ thuật Đắk Lắk)
  • Trường Trung cấp Trường sơn
  • Trường Trung cấp Tây nguyên

Dân cư[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Số dân
(người)
Năm Số dân
(người)
Năm Số dân
(người)
Năm Số dân
(người)

1995

1.398.300

2000

1.860.900

2005

1.658.500

2010

1.754.400

1996

1.501.800

2001

1.912.200

2006

1.677.800

2011

1.771.800

1997

1.605.100

2002

1.954.500

2007

1.696.600

2014

1.834.800

1998

1.703.100

2003

1.995.600

2008

1.715.100

2015

1.850.000

1999

1.793.400

2004

1.635.600

2009

1.735.700

2016

1.874.500

2019

1.869.322

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Đắk Lắk đạt 1.869.322 người, mật độ dân số đạt 135 người/km²[42] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 462.013 người, chiếm 24,7% dân số toàn tỉnh[43], dân số sống tại nông thôn đạt 1.407.309 người, chiếm 75,3% dân số[44]. Dân số nam đạt 942.578 người[45], trong khi đó nữ đạt 926.744 người[46]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,75 ‰[47] Đây cũng là tỉnh đông dân nhất vùng Tây Nguyên với hơn 1,8 triệu dân.

Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Đắk Lắk có 13 Tôn giáo khác nhau chiếm 577.920 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 265.760 người, thứ hai là Đạo Tin Lành với 181.670 người, thứ ba là Phật giáo với 126.660, thứ tư là Đạo Cao Đài có 3.572 người, cùng với các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 162 người, Hồi giáo có 65 người, Bửu sơn kỳ hương có 23 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có ba người, Bahá'í có hai người, ít nhất là Minh Sư ĐạoMinh Lý Đạo và Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi đạo có một người[48].

Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.161.533 người, thứ hai là Người Ê Đê có 298.534 người, thứ ba là Người Nùng có 71.461 người, thứ tư là Người Tày có 51.285 người. Cùng các dân tộc ít người khác như M'nông có 40.344 người, Người Mông có 22.760 người, Người Thái có 17.135 người, Người Mường có 15.510 người[48]...

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Bến nước Kodung

Đắk Lắk có bản sắc văn hoá đa dạng như các trường ca truyền miệng lâu đời Đam SanXinh Nhã dài hàng nghìn câu, như các ngôn ngữ của người Ê Đêngười M'Nông...như các đàn đá, đàn T'rưng, đàn k'lông pút... Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.

Các lễ hội đáng chú ý gồm có Lễ mừng lúa mới, Lễ bỏ mả, Lễ hội đâm trâu, Lễ cúng Bến nước, Lễ hội đua voi, Lễ hội Cồng chiêng và Lễ hội cà phê… được tổ chức đều đặn hàng năm như một truyền thống. Các Di tích lịch sử tại Đắk Lắk như Đình Lạc GiaoChùa Sắc tứ Khải ĐoanNhà đày Buôn Ma Thuột, Khu Biệt điện Bảo ĐạiToà Giám mục tại Đắk LắkHang đá Đắk Tur và Tháp Yang Prong...

Y tế[sửa | sửa mã nguồn]

Đắk Lắk là trung tâm về Y tế vùng Tây Nguyên. Với một số bệnh viện lớn cấp Vùng như Bệnh viện Đa khoa Vùng Tây Nguyên với quy mô 800 giường bệnh nội trú. Với nỗ lực của các Y - Bác sĩ, bệnh viện đã hạn chế được một phần về tình trạng bệnh nhân cấp cứu phải chuyển tuyến đến các bệnh viện tuyến trên như: Bệnh viện Chợ Rẫy (Hồ Chí Minh), Bệnh viện Đà Nẵng (Đà Nẵng), Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội).

Thể thao[sửa | sửa mã nguồn]

Đắk Lắk có Câu lạc bộ bóng chuyền Đắk Lắk hiện đang thi đấu tại giải vô địch và câu lạc bộ bóng đá Đắk Lắk thi đấu ở giải hạng nhất Quốc gia

Du lịch[sửa | sửa mã nguồn]

Du khách đi voi ở hồ Lắk

Bài chi tiết: Du lịch Đắk Lắk

Du lịch Đắk Lắk đang có lợi thế với nhiều địa danh cho phép khai thác theo hướng kết hợp cảnh quan, sinh thái, môi trường và truyền thống văn hoá của nhiều dân tộc trong tỉnh như hồ LắkThác Gia Long, cụm du lịch Buôn Đôn, Thác Krông KmarDiệu ThanhTiên Nữ… bên cạnh các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên Chư Yang Sin, Easo[49]

Giao thông[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà ga sân bay‎ Buôn Ma Thuột

Tỉnh Đắk Lắk có Sân bay Buôn Ma Thuột tuyến từ Buôn Ma Thuột đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí MinhHà NộiĐà NẵngVinhHải PhòngThanh HóaCần Thơ Ngoài ra, 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, có quốc lộ 14 chạy qua nối với thành phố Đà Nẵng qua các tỉnh Gia LaiKon Tum và nối với Thành phố Hồ Chí Minh qua Bình Phước và Bình Dương...Song song với biên giới Campuchia có quốc lộ 14C. Quốc lộ 27 nối thành phố Buôn Ma Thuột với thành phố Phan Rang đi qua tỉnh Lâm Đồng có đoạn chung với quốc lộ 20Quốc lộ 26 từ Đắk Lắk đi Tỉnh Khánh Hòa, nối với quốc lộ 1A tại thị trấn Ninh Hoà, huyện Ninh HoàTỉnh Khánh HòaQuốc lộ 29 nối thị xã Buôn Hồ với tỉnh Phú Yên tại cảng Vũng Rô.

;